Thiết kế và chế tạo USS Norfolk (DL-1)

Là tàu chiến lớn đầu tiên được Hoa Kỳ chế tạo sau khi Thế Chiến II chấm dứt, Norfolk bắt đầu được thiết kế từ năm 1945, mang tên dự án SCB 1 (SCB: Ship Characteristic Board) từ năm 1946, và được phê duyệt vào năm 1947 như là chiếc CLK-1, một tàu tìm-diệt tàu ngầm có thể hoạt động trong mọi hoàn cảnh thời tiết đồng thời trang bị thế hệ radar, sonar và thiết bị điện tử thế hệ mới nhất. Nó được thiết kế dựa trên một khung tàu tuần dương hạng nhẹ để có thể mang theo một loạt các cảm biến khác nhau so với một tàu khu trục.[3][4] Thế hệ tàu mới này được dự định để theo dõi và tiêu diệt lớp tàu ngầm Whiskey của Liên Xô, mà tính năng được cho là tương đương hoặc thậm chí tốt hơn tàu ngầm U-boat Kiểu XXI của Đức Quốc xã.[1]

Nguồn gốc

Kinh nghiệm có được trong chiến tranh chống tàu ngầm của Thế Chiến II được đúc kết khi Hải quân Mỹ bắt đầu tìm kiếm những phương tiện chống ngầm mới để hoạt động cùng đội đặc nhiệm tàu sân bay. Rõ ràng là thiết giáp hạmtàu tuần dương không được thiết kế tối ưu cho nhiệm vụ hỗ trợ và bảo vệ, trong khi tàu khu trục không có được tầm xa hoạt động cần thiết. Điều này đưa đến việc tìm kiếm một kiểu tàu mới, vốn chưa có tên, và gọi chung là tàu "hô tống" (escort), có thể là tàu hộ tống đại dương (ocean escort) hay tàu hộ tống hạm đội (fleet escort). Các tàu frigate và tàu khu trục thời Thế Chiến II được hiện đại hóa được xếp lớp là tàu khu trục hộ tống đại dương (Ocean Escort [Destroyer]), nhưng hải quân cảm thấy cần có một kiểu tàu chiến lớn hơn, có kích cỡ trung gian giữa một tàu tuần dương (lúc đó toàn là tàu toàn súng lớn truyền thống với vai trò đối hạm) với một tàu hộ tống phòng không/chống ngầm. Hải quân đã chọn một kiểu "siêu khu trục hạm", có tầm hoạt động xa và tốc độ đủ nhanh, nhưng trang bị ít vũ khí đối hạm và phòng không, đồng thời có những phương tiện chống ngầm tiên tiến nhất. Kích cỡ con tàu cũng đủ lớn để bố trí các phương tiện chỉ huy, nên chúng cũng sẽ được sử dụng như những soái hạm khu trục.[1]

Đặc tính thiết kế

Với chiều dài chung 540 ft (160 m) và mạn tàu rộng 54 ft (16 m), chiếc soái hạm khu trục có hình dáng dài và hẹp, với tỉ lệ dài/rộng tương đương một tàu khu trục, và có đặc tính đi biển tốt. Nó có thiết kế trung gian giữa một tàu tuần dương hạng nhẹ và một tàu khu trục, với cấu trúc thượng tầng dài cách quãng bởi vị trí đặt xuồng, hai ống khói, cầu tàu tương đối cao và hai vị trí tháp pháo bắn thượng tầng phía trước và phía sau kèm với các bệ pháo phòng không. Nó cũng có ống phóng ngư lôi nhưng đặt cố định hai bên lườn tàu, gồm bốn ống mỗi bên mạn. Học hỏi từ các vụ thử nghiệm bom nguyên tử, nó được thiết kế để bụi phóng xạ được quét sạch khỏi sàn tàu và cầu tàu được đóng kín hoàn toàn để bảo vệ tốt hơn, trong mọi cánh cửa đều được đệm kín không chỉ ở mức sàn tàu. Có thể nói Norfolk là tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ đầu tiên có tính năng phòng chống xạ-hóa-sinh.[1]

Hệ thống động lực

Norfolk được vận hành bởi hai turbine hơi nước General Electric dẫn động hai trục chân vịt thông qua hộp số giảm tốc; hơi nước được cung cấp bởi bốn nồi hơi Babcock & Wilcox, tổng công suất đạt 80.000 bhp (60.000 kW). Với kiểu dáng dài và hẹp và với trọng lượng choán nước ở mức trung bình là 5.600 tấn Anh (5.690 t) khi đầy tải, con tàu đạt được tốc độ tối đa 32 kn (59 km/h; 37 mph). Tầm xa được thiết kế để phù hợp điều kiện hoạt động tại Đại Tây Dương là 6.000 nmi (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 20 kn (37 km/h; 23 mph). Nhằm mục đích hoạt động chống ngầm, chân vịt có đường kính khá lớn để quay chậm hơn và như thế hoạt động ít ồn hơn.[1]

Hệ thống vũ khí

Norfolk ngoài khơi Hampton Roads vào tháng 9 năm 1955. Có thể thấy rõ hai tháp pháo 3-inch nòng đôi đặt trước sau trên trục dọc cùng hai bệ phóng rocket Alpha chống ngầm hai bên phía trước cầu tàu.

So với kích cỡ và tải trọng, hệ thống vũ khí được trang bị ban đầu cho Norfolk tỏ ra yếu kém. Dàn pháo chính bao gồm bốn tháp pháo 3-inch/50-caliber Mark 33 nòng đôi bắn thượng tầng gồm hai phía trước và hai phía sau; chúng được nâng cấp lên kiểu 3-inch/70-caliber vẫn còn đang được thử nghiệm vào năm 1950. Hỏa lực phòng không tầm gần gồm bốn khẩu đội Oerlikon 20 mm/70-caliber nòng đôi bố trí trên sàn phía đuôi tàu, gồm hai khẩu đội mỗi bên mạn. Tám ống phóng dành cho ngư lôi 21 inch (530 mm) Mark 35, chúng có chiều dài 13 ft 5 in (4,09 m) với đầu đạn HBX nặng 270 lb (120 kg) và đặt được tầm xa 13.000 yd (12 km) ở tốc độ 27 kn (50 km/h); kiểu ngư lôi này được dẫn đường bằng hệ thống dò âm chủ động và thụ động, và là vũ khí chống ngầm chủ yếu. Chúng được bổ sung bởi bốn dàn phóng rocket chống ngầm RUR-4 Alpha Weapon gồm hai dàn bố trí hai bên mạn ngay trước cầu tàu và hai dàn đặt dọc phía đuôi tàu, tốc độ phóng là khoảng 12 rocket mỗi phút.[1]

Chế tạo

Norfolk được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation tại Camden, New Jersey vào ngày 1 tháng 9, 1949. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 12, 1951, được đỡ đầu bởi cô Betty King Duckworth, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ như tàu soái hạm khu trục với ký hiệu lườn DL-1 vào ngày 4 tháng 3, 1953 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân Clarence Matheson Bowley.[3][5][1]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: USS Norfolk (DL-1) http://books.google.com/?id=3hlwQAAACAAJ http://destroyerleaderassociation.org/ships/norfol... http://www.navsource.org/archives/05/0201.htm http://www.navsource.org/archives/05/0201.html https://naval-encyclopedia.com/cold-war/us/uss-nor... https://www.history.navy.mil/research/histories/sh... https://www.nvr.navy.mil/SHIPDETAILS/SHIPSDETAIL_D... https://www.navypedia.org/ships/usa/us_cr_norfolk.... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:USS_No...